Mật độ xương là gì? Các công bố khoa học về Mật độ xương

Mật độ xương là một thông số đánh giá sự mật độ của xương trong cơ thể. Nó thường được đo bằng cách sử dụng x-ray hấp thụ tia X hoặc máy đo quang học ánh sáng ...

Mật độ xương là một thông số đánh giá sự mật độ của xương trong cơ thể. Nó thường được đo bằng cách sử dụng x-ray hấp thụ tia X hoặc máy đo quang học ánh sáng tạp âm (DXA) để tính toán tỷ lệ giữa khoảng cách giữa các mảng xương và mức độ hấp thụ tia X hoặc ánh sáng tạp âm vào xương. Mật độ xương được sử dụng để đánh giá rủi ro loãng xương, một tình trạng mất mật độ xương và làm cho xương trở nên mỏng hơn, dễ gãy. Việc đo mật độ xương rất hữu ích trong chẩn đoán và theo dõi các bệnh liên quan đến xương như loãng xương, osteoporosis, và các vấn đề xương khác.
Mật độ xương là một chỉ số cho biết khối lượng xương có trong mỗi đơn vị thể tích của xương. Đơn vị đo mật độ xương thường là grams per cubic centimeter (g/cm³) hoặc milligrams per milliliter (mg/ml). Mật độ xương càng cao thì xương càng mạnh, còn mật độ xương thấp có thể cho thấy xương yếu và dễ gãy.

Để đo mật độ xương, phương pháp phổ biến nhất là dùng máy đo x-ray hấp thụ tia X hoặc DXA. Trong quá trình xét nghiệm, tia X sẽ được phát qua xương và tạo ra hình ảnh của xương trên màn hình. Máy quang học sẽ đo lượng tia X hoặc ánh sáng tạp âm đã bị hấp thụ và tính toán ra mật độ xương. Kết quả sẽ được so sánh với một bảng chuẩn để xác định mật độ xương bình thường, thấp hay cao.

Mật độ xương cung cấp thông tin quan trọng về sức khỏe xương. Khi mật độ xương thấp, người có nguy cơ cao mắc các vấn đề về xương như loãng xương. Đánh giá mật độ xương đóng vai trò quan trọng trong chẩn đoán và theo dõi loãng xương, đặc biệt trong cận lâm sàng sống thực tế và điều trị loãng xương. Ngoài ra, mật độ xương cũng được sử dụng để đánh giá tình trạng sức khỏe xương trong các bệnh liên quan như osteoporosis, bệnh tăng biểu mô xương, đồng thời cũng giúp theo dõi tiến trình điều trị và hiệu quả của phương pháp điều trị.
Để đo mật độ xương, phương pháp phổ biến nhất là sử dụng DXA (Dual-energy X-ray absorptiometry), còn được gọi là X-quang hai công năng. DXA sử dụng hai loại tia X có năng lượng khác nhau để đo mức độ hấp thụ của tia X trong xương.

Khi tiến hành xét nghiệm, bệnh nhân được nằm nằm trên một chiếc bàn và máy DXA sẽ di chuyển qua từ trên đầu tới chân. Máy sẽ phát ra hai loại tia X khác nhau, một tia X mềm và một tia X cứng. Khi tia X đi qua xương, nó sẽ bị hấp thụ một phần dựa trên mật độ xương. Phần tia X chưa bị hấp thụ sẽ được máy đo lượng và tiếp tục di chuyển.

Kết quả của máy DXA sẽ được biểu diễn qua hình ảnh và số liệu số. Hình ảnh sẽ chỉ ra mật độ xương của từng khu vực trong cơ thể như xương cột sống, xương đùi, xương cánh tay... Số liệu số cung cấp kết quả chi tiết về mật độ xương.

Mật độ xương được so sánh với một bảng chuẩn để xác định xem mật độ xương của một người là bình thường, thấp hay cao. Một số đánh giá thông thường dựa trên kết quả của DXA bao gồm:

1. Mật độ xương bình thường: Mật độ xương của người khỏe mạnh thuộc phạm vi bình thường cho độ tuổi và giới tính của họ.
2. Mật độ xương thấp: Chỉ số mật độ xương thấp hơn so với nhóm so sánh có thể chỉ ra nguy cơ cao hơn mắc bệnh loãng xương và gãy xương.
3. Mật độ xương cao: Mật độ xương cao hơn có thể chỉ ra xương mật độ xương cương cứng, dày hơn bình thường.

Đo mật độ xương là một trong những phương pháp tầm quan trọng trong chẩn đoán và theo dõi sức khỏe xương. Nó cung cấp thông tin quan trọng để đánh giá nguy cơ loãng xương và giúp các chuyên gia y tế đưa ra dự đoán về nguy cơ gãy xương và điều trị phù hợp.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "mật độ xương":

Hyperparathyroidism nguyên phát Dịch bởi AI
Springer Science and Business Media LLC - Tập 1 - Trang 25-34 - 2002
Những mô tả lâm sàng sớm nhất về hyperparathyroidism nguyên phát chỉ ra rằng đây là một rối loạn tiến triển không thể tránh khỏi. Hiện tại, ở những cá nhân không có triệu chứng và không đáp ứng các hướng dẫn phẫu thuật, hyperparathyroidism nguyên phát, nhìn chung, không có vẻ gì là sẽ tiến triển. Các bệnh nhân không có triệu chứng có xu hướng giữ nguyên trạng thái không triệu chứng trong nhiều năm quan sát. Đối với những người có biểu hiện lâm sàng rõ rệt, sỏi thận là lý do phổ biến nhất. Đối với những bệnh nhân này, phẫu thuật rõ ràng là cần thiết. Đo mật độ xương là một thành phần không thể thiếu trong việc đánh giá cũng như theo dõi, vì có bằng chứng cho thấy xương bị ảnh hưởng bởi công nghệ này ở hầu hết các bệnh nhân. Điều này trái ngược với chụp X-quang xương, thường luôn có kết quả âm tính. Tuy nhiên, chỉ những bệnh nhân không bình thường mới cho thấy một phép đo khối lượng xương tại xương vỏ hoặc xương xốp có giá trị thấp hơn hai độ lệch chuẩn so với nhóm chứng cùng độ tuổi và giới tính. Những cá nhân như vậy vẫn nên được khuyến nghị thực hiện phẫu thuật cận giáp. Mật độ xương, nồng độ canxi huyết thanh và/hoặc lượng canxi bài tiết qua nước tiểu có thể cho thấy bằng chứng tiến triển trong khoảng 25% bệnh nhân bị hyperparathyroidism nguyên phát không có triệu chứng. Vì lý do này, tất cả các bệnh nhân không dự kiến phẫu thuật cho hyperparathyroidism nguyên phát nên được theo dõi với việc xét nghiệm định kỳ hai năm một lần (nồng độ canxi huyết thanh) hoặc hàng năm (bài tiết canxi qua nước tiểu và đo mật độ xương).
#hyperparathyroidism nguyên phát #sỏi thận #mật độ xương #nồng độ canxi huyết thanh #bài tiết canxi qua nước tiểu
Nguyên nhân gây bệnh đốm trắng, một bệnh gây chết của san hô nhánh Eo Caribê, Acropora palmata Dịch bởi AI
Proceedings of the National Academy of Sciences of the United States of America - Tập 99 Số 13 - Trang 8725-8730 - 2002

Quần thể san hô nhánh Eo Caribê sống ở khu vực nước cạn, Acropora palmata , đang bị tiêu diệt bởi bệnh đốm trắng, với mức độ mất đi lớp phủ sống ở vùng Florida Keys thường vượt quá 70%. Tốc độ mất mô diễn ra nhanh chóng, trung bình đạt 2,5 cm 2 mỗi ngày −1 , và đạt đỉnh cao nhất trong các giai đoạn có nhiệt độ tăng cao theo mùa. Tại Florida, sự lan rộng của bệnh đốm trắng tuân theo mô hình lây nhiễm, với các vị trí gần nhất dễ bị nhiễm bệnh nhất. Trong báo cáo này, chúng tôi xác định một loại vi khuẩn ruột phổ biến, Serratia marcescens , là tác nhân gây ra bệnh đốm trắng. Đây là lần đầu tiên, theo hiểu biết của chúng tôi, rằng một loài vi khuẩn liên quan đến ruột người đã được chứng minh là một mầm bệnh đối với động vật không xương sống biển.

#san hô nhánh Eo Caribê #bệnh đốm trắng #<i>Acropora palmata</i> #<i>Serratia marcescens</i> #Florida #vi khuẩn đường ruột #động vật không xương sống biển #dịch bệnh san hô #lây nhiễm.
MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN ĐẾN MẬT ĐỘ XƯƠNG Ở NGƯỜI BỆNH CAO TUỔI TẠI BỆNH VIỆN LÃO KHOA TRUNG ƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 507 Số 1 - 2021
Nghiên cứu cắt ngang mục tiêu phân tích một số yếu tố liên quan đến mật độ xương ở người cao tuổi điều trị tại bệnh viện Lão Khoa Trung Ương. 300 người bệnh đến khám tại khoa khám bệnh, khoa khám bệnh theo yêu cầu và điều trị nội trú tại khoa nội tiết và cơ xương khớp Bệnh viện Lão Khoa Trung Ương thỏa mãn các điều kiện (i) Tuổi ≥ 60, (ii) Đồng ý tham gia nghiên cứu. Loại ra khỏi nghiên cứu các đối tượng (i) Đái tháo đường, (ii) Loãng xương thứ phát, (iii) Đã điều trị loãng xương. Kết quả cho thấy Phần lớn loãng xương gặp ở nhóm tuổi ≥ 80. Tuổi trung bình của nhóm loãng xương là 73,3 ± 7,6. Chủ yếu gặp ở nữ giới (93,6%). Mật độ xương giảm dần theo tuổi ở cả 2 vị trí CSTL và CXĐ (p < 0,05). Khả năng người bệnh tập thể dục không có loãng xương cao gấp 1,8 lần người không tập thể dục (95%CI: 1,3 – 2,4). Nguy cơ người có bệnh lý nền xuất hiện tình trạng loãng xương cao gấp 2,37 lần những người không có bệnh lý nền (95%CI: 1,8 – 3,1). Mật độ xương ở cột sống thắt lưng và mật độ xương ở cổ xương đùi có mối tương quan nghịch với Cholesterol TP, Triglycerid và HDL – C (p < 0,01). Ngược lại, mật độ xương ở cột sống thắt lưng và mật độ xương ở cổ xương đùi có mối tương quan thuận với LDL – C.
#mật độ xương #người già
THỰC TRẠNG LOÃNG XƯƠNG VÀ MỘT SỐ YẾU TỐ LIÊN QUAN Ở NGƯỜI CAO TUỔI ĐẾN KHÁM BỆNH TẠI BỆNH VIỆN ĐA KHOA TỈNH NINH BÌNH
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 62 Số 7 (2021) - 2021
Mục tiêu: 2. Khảo sát thực trạng loãng xương người cao tuổi (NCT) đến khám bệnh tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh Ninh Bình; 2. Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến bệnh loãng xương ở các đối tượng trên. Phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang được thực hiện trên 385 bệnh nhân cao tuổi tới khám tại khoa Khám bệnh và khám bệnh yêu cầu Bệnh viện Đa Khoa tỉnh Ninh Bình từ tháng 7 năm 2020 tới tháng 9 năm 2021. Kết quả: Hơn một nửa số đối tượng nghiên cứu bị loãng xương cột sống thắt lưng (59,5%), tỷ lệ giảm mật độ xương cột sống thắt lưng là 30,4%. Tỷ lệ loãng xương cột sống thắt lưng là 18,7% và giảm mật độ xương cổ xương đùi là 45,5%. Tỷ lệ loãng xương cao hơn rõ rệt ở nữ so với nam, ở người trên 70 tuổi so với người trẻ hơn. Các yếu tố nguy cơ loãng xương ở đối tượng nghiên cứu bao gồm chỉ số khối cơ thể, có từ 5 yếu tố nguy cơ trở lên và có từ 3 bệnh mạn tính trở lên. Các yếu tố nguy cơ loãng xương ở nữ giới bao gồm tuổi mãn kinh, thời gian mãn kinh, số lần sinh con, thời gian cho con bú và tình trạng cắt buống trứng. Hút thuốc và uống rượu được xem là các yếu tố nguy cơ loãng xương ở nam giới. Kết luận: Tỷ lệ LX khá cao ở NCT và có liên quan tới tuổi, giới, một số yếu tố sức khỏe sinh sản ở nữ và các hành vi nguy cơ ở nam giới.
#Loãng xương #người cao tuổi #mật độ xương.
KHẢO SÁT MẬT ĐỘ XƯƠNG Ở NHỮNG NGƯỜI TRÊN 40 TUỔI DỰA TRÊN CHỈ SỐ T-SCORE
Tạp chí Y học Cộng đồng - Tập 63 Số 4 - 2022
Mục tiêu: Khảo sát mật độ xương ở người trên 40 tuổi đến khám tại khoa Khám xương và điều trịngoại trú Bệnh viện Hữu Nghị Việt Đức.Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu mô tả cắt ngang, khảo sát mật độ xương của600 người bệnh trên 40 tuổi bằng phương pháp đo hấp thụ tia X năng lượng kép (DEXA) tại các vịtrí đốt sống thắt lưng, cổ xương đùi.Kết quả: Tỷ lệ loãng xương chiếm 37,33%, tiền loãng xương 21,33%, trong đó mật độ xương (Tscore) trung bình đo được tại L1, L2, L3, L4, cổ xương đùi bên trái (phải) lần lượt là: 0,079 ± 1,22;-0,23 ± 1,38; 0,01 ± 1,44; -1,13 ± 1,44; 0,22 ± 1,22 (0,35 ± 1,44). T-score trung bình của nam caohơn nữ. T-score trung bình của nhóm BMI <18,5 thấp hơn so với nhóm có BMI ≥ 18,5 ở cả nam vànữ. Tại tất cả các vị trí đo, giữa tuổi và mật độ xương có mối tương quan tỷ lệ nghịch, có ý nghĩathống kê.Kết luận: Tuổi càng cao mật độ xương càng giảm. Nữ giới có mật độ xương thấp hơn so với namgiới. Bệnh nhân có BMI thấp có mật độ xương giảm hơn so với bệnh nhân có BMI cao.
#Loãng xương #tia X năng lượng kép #mật độ xương.
Đặc điểm lâm sàng, X-quang bệnh nhân phẫu thuật nâng xoang hở cấy ghép implant một thì
Nhận xét đặc điểm mật độ xương hàm, dạng sinh học mô mềm, chiều dày và chiều rộng lợi sừng hóa tại các vị trí cấy ghép implant. Nghiên cứu thực hiện trên chùm 24 bệnh nhân được phẫu thuật nâng xoang hở 1 thì cấy ghép 33 implant. Mật độ xương D3 cao nhất chiếm 69,8%, mô mềm dày chiếm 54,5%, mô mềm mỏng chiếm 45,5%, nam có tỉ lệ mô mềm dày cao hơn với 59,1%, nữ có tỉ lệ mô mềm mỏng cao hơn với 54,5%, chiều dày lợi sừng hóa trung bình nhóm răng hàm nhỏ là 2,7 ± 0,7 mm; răng hàm lớn là 3,2 ± 0,3 mm, chiều rộng lợi sừng hóa trung bình nhóm răng hàm nhỏ là 4,1 ± 0,7 mm; răng hàm lớn là 5,2 ± 1,0 mm. Mật độ xương ở vùng phía sau hàm trên chủ yếu là loại D3, chiếm 69,8%. Dạng sinh học mô mềm dày có tỉ lệ cao hơn, chiếm 54,5%. Không có sự khác biệt về dạng sinh học mô mềm ở nam và nữ. Chiều dày lợi sừng hóa trung bình nhóm RHN là 2,7 ± 0,7 mm; ở RHL là 3,2 ± 0,3 mm, Chiều rộng lợi sừng hóa trung bình ở RHN là 4,1 ± 0,7 mm; ở RHL là 5,2 ± 1,0 mm.
#Mật độ xương #dạng sinh học mô mềm #nâng xoang hở #lợi sừng hóa
Một số yếu tố liên quan đến mật độ xương ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp
Mục tiêu: Tìm hiểu một số yếu tố liên quan đến mật độ xương (MĐX) cột sống thắt lưng và cổ xương đùi ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả cắt ngang trên 128 viêm khớp dạng thấp đến khám và điều trị tại Bệnh viện Bạch Mai. Kết quả: Kết quả nghiên cứu cho thấy: Tại cột sống thắt lưng tỷ lệ bệnh nhân bị giảm mật độ xương 24,2%, loãng xương là 64,8%, ở cổ xương đùi tỷ lệ này lần lượt là: 48,4% và 30,5%. Các yếu tố ảnh hưởng đến mật độ xương ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp: Mật độ xương của nhóm bệnh nhân có BMI < 18,5 (kg/m2) thấp hơn so với nhóm có BMI ≥ 18,5 (kg/m2) (p<0,05), mật độ xương tại cột sống thắt lưng và cổ xương đùi ở nhóm bệnh nhân mắc bệnh dưới 2 năm cao hơn so với nhóm có thời gian mắc bệnh 2 - 5 năm và trên 5 năm; giai đoạn bệnh viêm khớp dạng thấp càng dài thì mật độ xương càng giảm (p<0,05). Nhóm bệnh nhân dùng glucocorticoid có tỷ lệ loãng xương cao hơn so với nhóm không dùng ở cả vị trí cột sống thắt lưng và cổ xương đùi. Mật độ xương ở nhóm bệnh nhân sử dụng liều glucocorticoid càng cao, thời gian kéo dài giảm hơn so với nhóm sử dụng liều thấp, thời gian ngắn (p<0,05). Kết luận: Ở bệnh nhân viêm khớp dạng thấp, sự giảm mật độ xương có liên quan đến BMI, thời gian phát hiện bệnh, giai đoạn bệnh, sử dụng glucocorticoid (liều thuốc và thời gian dùng). Từ khóa: Viêm khớp dạng thấp, mật độ xương, glucocorticoid.  
#Viêm khớp dạng thấp #mật độ xương #glucocorticoid
Khảo sát tình hình kê đơn thuốc giảm đau, chống viêm không steroid (NSAIDs) trên bệnh nhân xương khớp ngoại trú tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 năm 2021
Mục tiêu: Đánh giá tình hình kê đơn NSAIDs điều trị cho bệnh nhân điều trị ngoại trú tại Phòng khám Cơ xương khớp-Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 năm 2021. Đối tượng và phương pháp: Hồi cứu, mô tả cắt ngang, thông tin được thu thập từ các đơn thuốc điện tử của bệnh nhân điều trị ngoại trú các bệnh xương khớp được kê đơn NSAIDs. Kết quả: 2.102 lượt bệnh nhân được đưa vào nghiên cứu, với các kết quả: Bệnh cơ xương khớp thường gặp nhất tại bệnh viện là thoái hoá khớp, số thuốc trung bình trong một đơn thuốc là 3,2, số NSAIDs trung bình trong 1 đơn thuốc là 1,1, trên 95% số đơn thuốc dùng 1 NSAIDs, các kiểu phối hợp thường gặp là 1 NSAID uống và 1 NSAID bôi ngoài da, thuốc ức chế không chọn lọc COX chiếm tỷ lệ sử dụng cao nhất; tác dụng phụ hay gặp phải là đau thượng vị (7,1%), để hạn chế các tác dụng không mong muốn của NSAIDs, nhóm thuốc kháng acid và các thuốc chống loét khác tác dụng trên đường tiêu hoá được kê kèm theo đơn với tỷ lệ cao (83,3%). Số ngày sử dụng NSAIDs chủ yếu từ 4-7 ngày (82,5%). Kết luận: Qua khảo sát việc kê đơn NSAIDs tại Phòng khám Cơ xương khớp-Bệnh viện Trung ương Quân đội 108: Bệnh nhân điều trị bệnh xương khớp đa số có độ tuổi từ 40 trở lên, bệnh thoái hóa khớp là bệnh có tỷ lệ cao. Số thuốc NSAIDs trung bình là 1,1 thuốc/đơn, có 8 nhóm dùng phối hợp với NSAIDs. Số ngày sử dụng NSAIDs chủ yếu là 4-7 ngày. Phản ứng không mong muốn hay gặp phải trong nghiên cứu là đau thượng vị.
#NSAIDs # #điều trị ngoại trú
NGHIÊN CỨU TỔNG QUAN VAI TRÒ CỦA CLVT XƯƠNG THÁI DƯƠNG ĐỂ XÁC ĐỊNH VỊ TRÍ CỬA SỔ TRÒN TRONG CẤY ĐIỆN CỰC ỐC TAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 520 Số 1B - 2023
Mục tiêu: Phân tích vai trò của CLVT xương thái dương để xác định vị trí cửa sổ tròn trong phẫu thuật cấy điện cực ốc tai. Phương pháp nghiên cứu: Tổng quan luận điểm. Kết quả nghiên cứu: Có 15 bài báo tìm kiếm được thoả mãn các tiêu chuẩn lựa chọn và tiêu chuẩn loại trừ. Tỷ lệ trung bình không nhìn thấy/ nhìn thấy một phần/ nhìn thấy toàn bộ CST lần lượt là 23%/19%/58%. Không thấy sự khác biệt về giới tính, hai bên tai. Bộc lộ CST khó khăn hơn ở nhóm tuổi trẻ em so với người lớn. Độ rộng ngách mặt không ảnh hưởng đến khả năng nhìn thấy CST. Khoảng cách (k/c) CST- dây VII càng lớn càng dễ nhìn thấy CST, ngưỡng cut-off ≥2,95mm, góc tạo bởi trục ngang với đường thẳng qua CST - dây VII càng lớn, càng dễ nhìn thấy CST, góc <25° gây khó khăn cho phẫu thuật. OTN càng ngả sau càng khó bộc lộ CST. Hình dáng gờ CST trên lát cắt Axial hình C dễ nhìn thấy CST hơn. Một số chỉ số chưa có sự thống nhất giữa các nghiên cứu: k/c từ cạnh trước dây VII đến trục vòng đáy ốc tai, góc OTN, đường dự đoán. Kết luận: Tỷ lệ nhìn thấy liên quan đến độ tuổi nhưng không phụ thuộc vào giới tính hay bên tai. Một số chỉ số có thể dùng để dự đoán khả năng nhìn thấy CST: k/c CST- dây VII, góc tạo bởi trục ngang với đường thẳng qua CST - dây VII, độ ngả sau OTN, hình dáng gờ CST trên lát cắt Axial.
#CLVT xương thái dương #cấy điện cực ốc tai #cửa sổ tròn #ngách mặt.
MỐI LIÊN QUAN GIỮA ĐA HÌNH GEN METHYLENE TETRAHYDROFOLATE REDUCTASE (MTHFR) C677T VỚI LOÃNG XƯƠNG Ở NAM GIỚI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 514 Số 2 - 2022
Các nghiên cứu trước đây chỉ ra rằng nồng độ homocystein huyết thanh và đa hình C677Tcủa gen MTHFR (Methylenetetrahydrofolate reductase)có liên quan đến loãng xương ở quần thể người phụ nữ mãn kinh châu Á. Các nghiên cứu tiến hành trên nam giới cao tuổi còn ít. Do vậy nghiên cứu của chúng tôi nhằm mục tiêu tìm hiểu mối liên quan giữa đa hình gen MTHFR tại SNP (Single Nucleotid Polymorphysm) C677T với loãng xương ở nam giới cao tuổi. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu: Nghiên cứu bệnh chứng tiến hành trên 400 nam giới 50 tuổi trở lên (200 bệnh và 200 chứng) giá trị MĐX được xác định bằng phương pháp đo hấp phụ tia X năng lượng kép, tại vị trí đốt sống L1-L4, cổ xương đùi (CXĐ) và đầu trên xương đùi. Nhóm bệnh được chẩn đoán loãng xương theo tiêu chuẩn của WHO, nhóm chứng là nhóm có mật độ xương bình thường. Xác định kiểu gen MTHFR C677T bằng phương pháp ARMS – PCR (Amplifications Refractory Mutation System – Polymerase chain reaction - kỹ thuật sử dụng hệ thống khuếch đại đột biến). Kết quả: Tần xuất kiểu gen CC/CT/TTcủa nhóm nghiên cứu lần lượt là: 62,5%/33,5%/4,0%. Tần xuất alen Cvà T lần lượt là (79,25%) và (20,75%), phân bố alen C và T tuân theo định luật Hardy-Weinberg. Trong đó kiểu gen CT và TT xuất hiện ở nhóm bệnh (36,5% và 6%) cao hơn nhóm chứng (30,5% và 2%) sự khác biệt có ý nghĩa thống kê (p=0,036); người mang kiểu gen CT/TT làm tăng nguy cơ loãng xương gấp 1,54 lần  so với người mang kiểu gen CC (95% CI: 1,02-2,31 trong đó vị trí cổ xương đùi là 2,04 lần (95%CI: 1,23-3,38); sau khi kiểm định hồi quy tuyến tính đa biến với các yếu tố nguy cơ tuổi, chỉ số BMI, tiền sử hút thuốc lá, uống rượu, tiền sử gãy xương, mức độ hoạt động thể lực, nơi sống cho kết quả kiểu gen CT/TT làm tăng nguy cơ loãng xương lên gấp 1,52 lần so với kiểu gen CC, tuy nhiên không có ý nghĩa thống kê trong mô hình kiểm định đa biến. Kết luận: Kết quả nghiên cứu của chúng tôi chỉ ra rằng đa hình gen C677T của gen MTHFR là yếu tố nguy cơ độc lập ảnh hưởng đến loãng xương ở nam giới.
#MTHFR (Methylenetetrahydrofolate reductase) #Đa hình gen #Loãng xương #Mật độ xương #Nam giới
Tổng số: 71   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5
  • 6
  • 8